Xã hội càng hiện đại, phụ nữ càng có xu hướng mang thai muộn, dẫn đến các tình trạng thai nhi không khỏe mạnh như mong muốn. Bên cạnh đó, nhiều tác nhân bên ngoài khác cũng gây động thai, sẩy thai ở phụ nữ như môi trường ô nhiễm, căng thẳng, làm việc quá sức… Những bài thuốc an thai dưới đây sẽ phần nào hỗ trợ bạn có một thai nhi khỏe mạnh, đợi chờ ngày bé yêu chào đời.
Tía tô

Tía tô còn có tên là tử tô tử, tô ngạnh. Tên khoa học của tía tô là Perilla frutescens Britt, họ hoa môi (Lamiaceae) , là cây thân thảo, cao 0,5-1m. Lá mọc đối, mép khía răng, mặt dưới tím tía, có khi hai mặt đều tía, màu nâu hay màu xanh lục có lông nhám. Tía tô có tính ôn, vị cay, không độc. Hương vị tía tô là sự pha trộn giữa hồi hương, cam thảo, quế và vị the mát sát khuẩn. Cây tía tô dùng làm gia vị rất phổ biến, đồng thời là một vị thuốc an thai rất quý.
Bài thuốc
Nhổ cả cây tía tô sau khi đã hái lá lần thứ hai, rễ để riêng, cắt thành từng đoạn dài 5 - 10cm, phơi hoặc sấy khô (chỉ lấy thân chính, không lấy những cành nhỏ).
An thai: khi động thai (đau bụng): lấy cành cây tía tô (tô ngạch) sao vàng, dùng từ 6 - 20g, sắc với 150ml còn 100ml, chia nhỏ uống nhiều lần trong ngày.
Chữa động thai: Cành tía tô 8g, rễ cây gai 8g, ngải cứu hoặc cam thảo dây 4g. Tất cả các vị mang sắc uống. Nếu thấy ra máu, thêm lá huyết dụ 10g, hoặc cành tía tô, tục đoạn, ngải cứu, mỗi thứ 12g, rễ gai, thục địa, hoài sơn, mỗi thứ 20g, chỉ xác 8g, sa nhân 6g. Sắc uống làm 2 lần trong ngày. Khi thấy thuyên giảm thì ngừng thuốc.
Chữa băng huyết, động thai: Cành tía tô 10g, lá huyết dụ 10g, hoa cau đực 10g, tóc đốt thành than một dúm. Tất cả sao vàng, mang sắc uống, ngày dùng một thang.
Chữa phù khi mang thai (do khí trệ): Quả tía tô, hương phụ, trần bì ô dược, mộc qua, mỗi thứ 8g; cam thảo 4g; sinh khương 2g. Tất cả các vị sắc uống. Điều trị cho đến khi khỏi hẳn.
Dâu tằm
Dâu tằm là cây được trồng phổ biến khắp nơi ở nước ta. Dâu tằm còn có tên khác như: mạy môn, dâu cang, tầm tang, tên khoa học là Morus alba L. Morus acidosa.
Công dụng của dâu tằm từ xa xưa đã được ghi vào sách vở. Cây mọc kí sinh trên cây dâu (gọi là tang kí sinh) được dùng như một loại thuốc chữa động thai, đau nhức, lợi sữa sau sinh…Theo đông y tang kí sinh có vị đắng, tính bình vào hai kinh can và thận có tác dụng bổ can thận, mạnh gân cốt, an thai, làm cho xuống sữa. Tổ bọ ngựa trên cây dâu (gọi là tang phiêu tiêu) theo đông y có vị ngọt mặn, tính bình vào hai kinh can và thận, có tác dụng chữa đái són, đái nhiều lần, động thai.
Bài thuốc
Chữa động thai bằng tang kí sinh và tang phiêu tiêu trên cây dâu tằm.
Động thai đau bụng: Tầm gửi trên cây dâu tằm (tang kí sinh) 60g, Cao ban long(cao từ sừng hươu) 20g mang nướng cho thơm, ngải diệp (lá ngải cứu) 20g, nước ba bát, sắc còn một bát, chia uống nhiều lần trong ngày.
Động thai, bí đái: Tổ bọ ngựa trên cây dâu tằm (tang phiêu tiêu) mang nướng vàng tán nhỏ, ngày uống hai lần, mỗi lần 5g. Điều trị cho tới khi khỏi.
Tục đoạn

Tục đoạn còn có tên là sâm nam, đầu vù, rễ kế, tên khoa học là Dipsacus japonicus. Trong cây tục đoạn chỉ dùng làm thuốc ở phần rễ. Cây này phân bố chủ yếu ở vùng núi cao miền bắc nước ta. Tục lá nối, đoạn là dứt, vì người xưa cho rằng vị thuốc này có tác dụng liền gân xương đã dứt nên đặt tên như vậy. Đây là cây thân thảo, cao khoảng 1,5 – 2m. Thân có 6 cạnh, trên cạnh có một hàng gai thưa. Lá mọc đối, bẹ ôm lấy cành hoặc thân. Hoa mọc thành cụm hình trứng hay hình cầu, có màu trắng. Quả có 4 cạnh, màu xám trắng, dài độ 5-6mm. Cây tục đoạn phân bố nhiều ở các vùng đồi núi cao như Sapa, Lào Cai, Tuyên Quang.
Công dụng và dược tính: Tục đoạn dùng làm thuốc bổ toàn thân, an thai, lợi sữa, giảm sưng đau do bị thương, té ngã. Theo đông y tục đoạn có vị đắng, cay, tính hơi ôn, vào 2 kinh can và thận.
Bài thuốc
Chữa động thai: Tục đoạn (tẩm rượu) 80g, đỗ trọng (tẩm nước gừng rồi sao cho dứt tơ) 80g. Hai vị thuốc trên tán nhỏ, trộn với thịt táo tàu, viên bằng hạt ngô, ngày uống 30 viên, uống thuốc bằng nước cơm.
Chữa phụ nữ có thai 2-3 tháng mà bị động thai: Tục đoạn 40g, 600ml nước, sắc còn 200ml. Chia thuốc làm nhiều lần, uống trong ngày. Điều trị cho tới khi khỏi.
Ngải cứu

Ngải cứu còn gọi là cây thuốc cứu, cây thuốc cao, ngải diệp. Tên khoa học của ngải cứu là Artemisia vulgaris L. Bộ phận được dùng làm thuốc là lá và cành non của cây ngải cứu. Đây là loại cây thân thảo, sống lâu năm, cao từ 50-60cm. Lá ngải cứu mọc so le, không cuống, xẻ thùy lông chim. Hai mặt của lá ngải cứu rất khác nhau: mặt trên nhẵn, màu lục sậm, mặt dưới màu trắng bạc, có nhiều lông tơ mịn.
Dược tính và công dụng
Theo đông y, ngải cứu có tính hơi ôn, vị cay, dùng làm thuốc ôn khí huyết, điều kinh, an thai, chữa thai động không yên, chảy máu cam.
Bài thuốc
Chữa động thai, đau bụng, chảy máu: Ngải cứu 16g, tía tô 16g, thêm 600ml nước sắc lại còn 100ml. Có thể thêm đường cho dễ uống. Chia làm 3-4 lần uống trong ngày. Dùng cho đến khi thai yên, không còn ra máu.
Cây gai
Cây gai được dùng làm thuốc nêu dưới đây là loại cây gai dân gian thường dùng làm bánh ít lá gai ăn và sợi gai dùng dệt lưới đánh cá. Cây gai có tên khác là cây trữ ma và tên khoa học là Boehmeria nivea (L) Gaud. Đây là loại cây sống lâu năm, cao từ 1,5-2m. Lá cây mọc so le, hình tim, mặt dưới màu trắng bạc, nhiều lông tơ mịn. Theo đông y, cây gai có vị ngọt, tính hàn, không độc, có tác dụng an thai, tả nhiệt, thông tiểu.
Bài thuốc
Giúp an thai: Rễ cây gai mới thu hoạch hoặc đã phơi khô 30g, thêm 600ml nước, sắc lại còn 200ml nước. Chia thuốc này làm 3 lần, uống trong ngày. Chỉ cần uồng 1-2 ngày là có kết quả, không nên uống kéo dài.
Hoặc có thể dùng bài thuốc an thai khác như: Rễ gai tươi 10g, tía tô 10g, ngải cứu 10g, sắc uống trong ngày. Uống trong vòng 1-2 ngày, không nên uống kéo dài.
Phụ nữ có thai bị ra huyết dọa sẩy, có thai bị đau bụng:
+ Rễ gai tươi 4 phần, tía tô 1 phần, lá ngải cứu 1 phần (một phần khoảng 12g) sắc với nước uống trong ngày.
+ Rễ gai 2 phần, ngải cứu 1 phần, cành tía tô 2 phần (1 phần khoảng 4g), băm nhỏ, phơi khô sắc với 400ml nước, cô còn 100ml uống hết một lần trong ngày. Nếu có rỉ máu thì cho thêm 10g lá huyết dụ.
Lưu ý: Tía tô, ngải cứu bạn có thể mua ở bất cứ chợ nào. Câu dâu tằm, cây gai (cây làm bánh gai) được trồng nhiều ở các tỉnh miền Trung và miền Đông Nam bộ. Cây tục đoạn mọc nhiều ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Mai Linh
Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam - Đỗ Tất Lợi

0 comments :
Đăng nhận xét