“Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo
Trước thềm lan hoa héo ron ron
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non
Xe rồng thăm thẳm bóng loan rầu rầu”
Những câu thơ trong “Ai tư vãn” của công chúa Ngọc Hân vẫn làm lay động lòng người cho đến tận bây giờ. Những ai đã từng tìm hiểu về cuộc đời nàng hẳn sẽ buồn lây với số phận của nàng. Đi dọc lịch sử dân tộc, nàng ở trong số hiếm hoi phụ nữ được hưởng vinh dự “con vua lại lấy chồng làm vua”. Nhưng chính nàng cũng không thể ngờ, cuộc đời mình lại kết thúc một cách bi thảm như thế.

Con vua lại lấy được chồng làm vua
Lê Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại kinh thành Thăng Long. Ngọc Hân là con gái thứ 9 của vua Lê Hiển Tông. Mẹ nàng là Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, là người xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn - Bắc Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội), con gái trưởng của ông Nguyễn Đình Giai. Dân gian còn lưu truyền tên gọi Ngọc Hân là Bà Chúa Tiên khi nàng ở Phú Xuân vì dinh phủ lập ở chùa Kim Tiên.
Lê Ngọc Hân còn được gọi là Bắc Cung Hoàng hậu, vợ của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Quang Trung-Nguyễn Huệ là một người anh hùng dân tộc bách chiến bách thắng. Sự nghiệp quân sự của ông chói lọi trong sử sách. Bên cạnh cuộc đời xông pha tên đạn ở chốn trận mạc, Quang Trung-Nguyễn Huệ còn có một đời sống tình cảm nồng nàn, cháy bỏng hiếm thấy trong tiểu sử của các anh hùng dân tộc khác ở Việt Nam.
Quang Trung-Nguyễn Huệ có ba người vợ: Người thứ nhất (chưa biết họ tên) đã ở lại Quy Nhơn khi Nguyễn Huệ cầm quân ra giải phóng Phú Xuân năm 1786. Người thứ hai họ Phạm đã bồng con là Quang Toản theo chồng ra Phú Xuân. Khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế bà được phong là Vũ Hoàng Chính hậu. Khi Quang Trung mất (1792) con bà được kế vị lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Người thứ ba là công chúa Ngọc Hân, con gái vua Lê Hiển Tông. Sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi, Ngọc Hân được phong làm Bắc cung Vũ Hoàng hậu.
Tháng 5 năm 1786, tướng nhà Tây Sơn là Nguyễn Huệ ra Bắc với chiêu bài "phù Lê diệt Trịnh". Diệt xong họ Trịnh, Nguyễn Huệ tới yết kiến vua Lê Hiển Tông. Do sự mai mối của tướng Bắc Hà vào hàng Tây Sơn là Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngọc Hân vâng mệnh vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ. Khi đó nàng mới 16 tuổi, còn Nguyễn Huệ 33 tuổi.
Vài ngày sau, vua cha Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Lê Ngọc Hân nghĩ anh thân hơn cháu nên ủng hộ anh là Lê Duy Cận lên ngôi, nhưng bị tông tộc nhà Lê phản đối vì muốn lập hoàng thái tôn Lê Duy Kỳ - con của thái tử Duy Vĩ bị chúa Trịnh Sâm giết hại - lên ngôi. Do áp lực của tông tộc, Ngọc Hân phải nghe theo. Lê Duy Kỳ được lập, tức là vua Lê Chiêu Thống.
Ít lâu sau bà theo Nguyễn Huệ về Thuận Hóa.
Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế trước khi ra Bắc lần thứ ba để diệt quân Thanh, lấy niên hiệu Quang Trung, phong Ngọc Hân làm Hữu Cung Hoàng hậu.
Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lại phong bà làm Bắc Cung Hoàng Hậu. Bà có 2 con với Nguyễn Huệ là công chúa Nguyễn Ngọc Bảo và hoàng tử Nguyễn Quang Đức.
Trong ba người vợ ấy, Ngọc Hân là người hoàng tộc, trẻ, đẹp, đức hạnh, giỏi thơ văn và cũng là người vợ có mặt bên cạnh Quang Trung-Nguyễn Huệ vào lúc lâm chung.
Đối với công chúa Ngọc Hân, một trang tài sắc tuyệt vời - Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Nguyễn Huệ đã yêu bà trước khi vua Lê có ý định chọn ông làm phò mã. Từ khi kết duyên với Quang Trung-Nguyễn Huệ cho đến lúc nhà vua mất, bà đã được sống trong niềm hạnh phúc vô bờ, bà được nhà vua rất mực thương yêu quí mến.
Ra đi giữa tuổi xuân
Nãm Nhâm Tỵ (1792) một cơn bệnh đột phát khiến cho Nguyễn Huệ qua đời, bỏ lại bao dự tính chọc trời khuấy nước, bỏ lại người đẹp mỹ nhân ngọc ngà. Ngọc Hân trở thanh một bà hoàng sầu muộn. Nàng sống cô đơn, tự giam nhốt mình trong cung thất lạnh lùng, tự trách cho số phận hẩm hiu. Ngọc Hân luôn tiếc thương, than khóc, nhớ người chồng quân vương yểu số mang theo trái tim và hình sắc của bà xuống đáy mồ, âm dương cách biệt. Kể từ ngày kết hôn với hoàng đế Quang Trung, Ngọc Hân chỉ sống với ông được 6 năm. Lúc chồng mất, Ngọc Hân mới 22 tuổi, còn quá trẻ để chịu cảnh góa phụ. Nàng đã viết bài “Ai tư vãn” để bày tỏ nỗi đau khổ cùng cực cũng như nỗi tiếc thương vô hạn cho người chồng anh hùng vắn số. Không có tình yêu của Nguyễn Huệ, Ngọc Hân công chúa không thể xây dựng tuyệt tác văn chương ghi lại thiên tình sử của bà mà khởi đầu chỉ là một cuộc hôn nhân chính trị.
Chính vì tình yêu của Quang Trung-Nguyễn Huệ đã làm cho cuộc đời của Ngọc Hân có ý nghĩa lớn lao. Bởi thế, khi Qang Trung-Nguyễn Huệ đột ngột qua đời, Ngọc Hân đau đớn muốn quyên sinh theo chồng:
“Quyết liều mong vẹn chữ tòng
Trên rường nào ngại, giữa giòng nào e”
Và, quả thật nếu không vì hai người con còn quá nhỏ thì bà cũng đã chết với Quang Trung-Nguyễn Huệ.
Quang Trung mất, Quang Toản là con bà Chính cung hoàng hậu Phạm Thị Liên ( hoặc Bùi Thị Nhạn ) lên thay, tức là Cảnh Thịnh đế.
Theo bài "Danh nhân Lê Ngọc Hân" của Chu Quang Trứ, Lê Ngọc Hân đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân ở Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4 tháng 12 năm 1799) thì mất, lúc đó mới 29 tuổi.

Ngọc Hân và hoàng đế Quang Trung
Lễ bộ Thượng thư nhà Tây Sơn là Phan Huy Ích đã phụng chỉ soạn năm bài văn tế Ngọc Hân cho vua Cảnh Thịnh, cho các công chúa, cho bà Nguyễn Thị Huyền, cho các tôn thất nhà Lê, và cho họ ngoại ở làng Phù Ninh. Hoàng đế Cảnh Thịnh đích thân đọc trước linh sàng Hoàng thái hậu họ Lê. Bà được truy tặng là Như Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Cả năm bài văn tế trên còn được chép trong sách Dụ Am văn tập.
Và theo tộc phả họ Nguyễn Đình, đang khi triều Tây Sơn suy thoái, ngày 18 tháng 11 năm Tân Dậu (23 tháng 12 năm 1801) hoàng tử Nguyễn Quang Đức mất khi mới 10 tuổi, rồi ngày 17 tháng 4 năm Nhâm Tuất (18 tháng 5 năm1802), công chúa Ngọc Bảo cũng mất khi mới 12 tuổi.
Song theo Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng trong sách Các triều vua Việt Nam thì đang khi nội bộ triều Cảnh Thịnh lục đục và suy yếu, bà dẫn hai con đi trốn, đổi họ tên sống lẫn trong dân ở Quảng Nam. Không lâu sau bị phát hiện và bị bắt. Ngọc Hân phải uống thuốc độc tự vẫn, hai con bị thắt cổ chết. Khi ấy là năm Kỷ Mùi (1799).
Theo "Biệt lục" của tộc phả Nguyễn Đình, năm 1804, bà Nguyễn Thị Huyền vì thương con gái và hai cháu ngoại đều chết yểu nơi xa, nên đã thuê người vào Phú Xuân lấy hài cốt ba mẹ con Ngọc Hân đưa về bản dinh (tức dinh Thiết lâm của bà). Ngày 16 tháng 7 năm 1804, bà cho an táng hài cốt bà Ngọc Hân, phụ chôn hoàng tử ở bên trái và công chúa ở bên phải. Nơi đó nay là bãi Cây Đại hay bãi Đầu Voi ở đầu làng Nành, xã Phù Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội).
GS. Chu Quang Trứ dẫn theo Đại Nam thực lục cũng nói về việc này:
"Khoảng năm đầu Gia Long, ngụy đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù Ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích".
Gần 50 năm sau, dưới thời Thiệu Trị, miếu bị đổ nát. Một ông tú người làng Nành nhớ công lao của Chiêu nghi họ Nguyễn đối với dân làng đã quyên tiền tu sửa ngôi miếu. Không ngờ, có viên phó tổng cùng làng có thù riêng với ông tú, đã lên quan tố giác về việc thờ "ngụy Huệ". Triều đình Huế liền hạ lệnh triệt phá ngôi miếu, quật ba ngôi mộ, vứt hài cốt xuống sông. Ông tú kia bị trọng tội, Tổng đốc Bắc Ninh Nguyễn Đăng Giai cũng bị giáng chức .
Sau khi vua Quang Trung mất, Ngọc Hân đã sống hết sức chung thủy với chồng. Hai tác phẩm văn học của bà đã giúp cho hậu thế hiểu sâu tài năng và đức độ của Quang Trung hơn. Bà đã sống vì sự nghiệp Quang Trung và cuối cùng bà đã ra đi cùng nhà Tây Sơn.
Ngọc Hân có tái giá không?
Khi nhà Tây Sơn mất, trong dân gian truyền tụng câu:
“Số đâu có số lạ lùng
Con vua lại lấy hai chồng làm vua”.
Nhiều người vẫn cho rằng, sau khi nhà Tây Sơn mất, Ngọc Hân đã lấy vua Gia Long. Sự thực thế nào?
Em gái Lê Ngọc Hân là Lê Ngọc Bình, là con gái nhỏ nhất (thứ 23) của vua Lê Hiển Tông, là vợ của vua Cảnh Thịnh. Sau khi quyền thần Bùi Đắc Tuyên bị dẹp (1795), Lê Ngọc Hân làm mối Ngọc Bình cho vua Cảnh Thịnh.
Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, Ngọc Bình trở thành vợ vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh), sinh được hai hoàng tử nhà Nguyễn. Trong bộ sách Quốc sử di biên do Phan Thúc Trực soạn vào năm Tự Đức thứ 4 đến thứ 5 (1851-1852) đã chép như sau:
Năm Nhâm Tuất, Gia Long năm đầu (1802)... Ngày 21 Canh Thân, Thế tổ (Gia Long) đến kinh thành Thăng Long, hào mục bắt anh em Nguyễn Quang Toản dâng lên vua... Dâng nộp bà phi Lê Thị Ngọc Bình vào trong cung vua...
Năm 1941, tác giả Phạm Thường Việt, một lần nữa lại cho rằng người lấy vua Gia Long là Lê Ngọc Hân.
Tuy nhiên, qua Quốc sử di biên và một số tư liệu khác, các nhà nghiên cứu khẳng định rằng người lấy vua Gia Long là Lê Ngọc Bình, em gái bà - người ít được biết đến hơn bà.
Do chị em Ngọc Hân và Ngọc Bình có nhiều điểm tương đồng: Hai bà đều là công chúa con vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, hai bà đều sinh trưởng ở ngoài Bắc, lớn lên hai bà đều lấy chồng là hoàng đế nhà Tây Sơn, nghĩa là cả hai bà đều là "Hoàng hậu Phú Xuân". Do những điểm tương đồng căn bản đó mà những câu chuyện truyền tụng về cuộc đời hai bà, gây ra sự lầm lẫn giữa Ngọc Hân và Ngọc Bình.
Mai Thảo An
Tư liệu: Chuyện quý bà giữa đời thường và
trong cung cấm (Nguyễn Đắc Xuân)
0 comments :
Đăng nhận xét